Lịch sử Nhà_thờ_chính_tòa_Đức_Mẹ_Vô_Nhiễm,_Moskva

Thời kỳ xây dựng đầu tiên

Bản thiết kế quy hoạch của kiến trúc sư Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki

Vào cuối thế kỷ 19, ở Moskva chỉ có 2 nhà thờ Công giáo: nhà thờ thánh Louis của người công giáo Pháp và nhà thờ thánh Phêrô và Phaolô dành cho người Công giáo Ba Lan. Do cộng đoàn người Công giáo Ba Lan ở Moskva tăng lên tới khoảng 30.000 người, ngôi nhà thờ của họ trở nên quá nhỏ bé, không đủ sức chứa. Sau khi nộp đơn lên thống đốc Moskva xin xây một nhà thờ mới, năm 1894 hội đồng thành phố đã biểu quyết cho phép xây một nhà thờ mới, với nhiều điều kiện trong đó có 2 điều kiện liên quan tới địa điểm xây cất: nhà thờ mới phải xây ở bên ngoài trung tâm khu thành cổ, và không được ở gần nơi thánh thiêng của Chính thống giáo Nga.[4]

Theo điều kiện đòi hỏi của Hội đồng thành phố, ngày 16 tháng 5 năm 1895 giáo xứ đã thương lượng mua khu đất 10 hecta (22 acre) ở phố Malaya Gruzinskaya, thời đó khu đất này vẫn còn ở ngoại ô thành phố, xung quanh là ruộng đồng và vườn cây. Ngày nay khu này thuộc về khu trung tâm đô thị, ở bên ngoài đại lộ bao quanh khu trung tâm thành phố, ngay bên ngoài tuyến đường xe điện ngầm Koltsevaya bao quanh khu trung tâm thành phố, là khu có nhiều nhà cao tầng từ khi phát triển đô thị ở thế kỷ 20. Giá mua khu đất này thời đó là 10.000 rúp Nga bằng vàng (xấp xỉ 260.000 dollar Mỹ tính theo năm 2012).[5] do tiền quyên tặng. Hợp đồng mua bán đất và danh sách đầy đủ mọi người quyên tặng tiền hiện vẫn còn lưu trong hồ sơ lưu trữ của thành phố Moskva và thành phố Sankt Peterburg.[4][6]

Một điều kiện nữa mà Hội đồng thành phố áp đặt cho việc xây dựng nhà thờ mới như sau: "Xét vì đã có sẵn 2 nhà thờ Công giáo rồi, thì nhà thờ tương lai phải lớn hơn các nhà thờ cũ, với một thánh giá ở đầu hồi, nhưng không có tháp chóp nhọn và tượng điêu khắc ở bên ngoài".[4] Bản đồ án xây dựng do kiến trúc sư người Nga gốc Ba Lan Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki thiết lập. Mặc dù đồ án không tuân thủ điều kiện cuối cùng (về tháp nhọn) của hội đồng thành phố, nhưng vẫn được chấp thuận. Theo đồ án thì nhà thờ có đủ chỗ ngồi cho 5.000 tín đồ. Lễ khởi công diễn ra từ năm 1899, nhưng việc xây dựng bắt đầu từ 1901 tới năm 1911 mới hoàn tất. Chi phí xây dựng là 290.000 rúp Nga bằng vàng (xấp xỉ 7.500.000 dollar Mỹ tính theo năm 2012), phần lớn là do các thành viên trong giáo xứ Ba Lan ở Moskva đóng góp, số còn lại do các giáo xứ Công giáo khắp nước Nga, Ba Lan và Belarus quyên góp.[4][5][6]

Nhà thờ được thánh hiến ngày 21 tháng 12 năm 1911 với danh hiệu "Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm". Buổi lễ thánh hiến được các báo Nga và Ba Lan loan tin rộng rãi. Tờ Russkoye Slovo của Moskva viết:

Trên đường phố Malaya Gruzinskaya tồi tàn, bẩn thỉu, đã mọc lên một nhà thờ Công giáo mới kỳ diệu, có tính nghệ thuật cao, được cung hiến cho Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Có độ rộng và chiều cao lớn lao, ... với nhiều tháp nhỏ và tháp lớn cùng thánh giá. Nhà thờ chính tòa mới này gây một ấn tượng sâu sắc  ... Mọi chi tiết đều trông rất ấn tượng và nổi bật: không hề thấy một sai sót nhỏ về phong cách nghệ thuật.[4]

Từ năm 1911 tới năm 1917, người ta đã quyên tiền để mua sắm đồ nội thất, tương đối khá sơ sài, ngoại trừ bàn thờ chính rất đẹp. (Những đồ nội thất nguyên thủy vẫn còn giữ được cho tới thập niên 1930). Nhiều phần trong đồ án xây dựng đã bị bỏ: sàn nhà không được lát bằng đá cẩm thạch như dự thảo mà bằng bê tông thông thường; bên ngoài mặt tiền không có các tháp nhọn. Nhiều nguồn khác nhau về việc xây dựng các tháp nhọn: một số người cho rằng chúng được xây năm 1923,[5] nhưng một số khác lại cho rằng chúng chưa hoàn tất cho tới khi tái thiết nhà thờ vào năm 1999.[4][6] Những người nói các tháp nhọn được xây dựng năm 1923 cho rằng chúng đã bị hủy hoại trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.[5]

Bị đóng cửa và chuyển đổi mục đích sử dụng

Nhà thờ hư hại năm 1980

Sau cuộc Các mạng Nga năm 1917, chính phủ Nga lâm thời bị những người Bolshevik lật đổ, và Đế quốc Nga trở thành một nước trong Liên bang Xô Viết mới. Do chủ trương áp dụng chủ nghĩa vô thần chống mọi tôn giáo, chính phủ Xô Viết ra lệnh đóng cửa nhiều nhà thờ. Giáo xứ thánh Phêrô và Phaolô bị chính phủ cộng sản giải thể trong năm 1929, việc cử hành thánh lễ bị cấm triệt để.

Năm 1935 nhà thờ mới này bị tịch thu các khu vườn chung quanh để lấy đất xây một trường học trong năm sau, và cuối cùng nhà thờ bị đóng cửa ngày 30 tháng 7 năm 1938 (trước đó 9 ngày, nhà thờ thánh Phêrô và Phaolô cũng cùng chung số phận). Sau khi bị đóng cửa, nhà thờ đã bị lấy đi nhiều vật dụng, kể cả bàn thờ chính và cây đàn organ. Nhà thờ đã bị sử dụng làm kho chứa rau quả trong nhiều tháng, sau đó được xây lại thành 4 tầng lầu dùng làm nơi cư trú và ăn ở tập thể.[4]

Chỏm nhọn của tháp chính bị gỡ bỏ trong thời kỳ diễn ra trận Moskva (1941) nhằm ngăn ngừa Luftwaffe (Không quân Đức) dùng nó làm mục tiêu nhận ra vị trí tấn công. Ngay sau khi chiến tranh kết thúc trong năm 1945, các khu vườn cũ của nhà thờ bị sáp nhập vào khu nhà chung cư cao tầng. Năm 1956 một trận hỏa hoạn đã khiến cho phần cửa trời lấy ánh sáng phía trên vòm tháp chính bị sụp đổ. Các cư dân chiếm ngụ nhà thờ dần dần được đưa tới các nhà khác, và các thành viên của "Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt" (tiếng Nga: Мосспецпромпроект) nắm quyền sở hữu ngôi nhà thờ cũ này. Việc làm của viện nghiên cứu này chủ yếu là lập ra các bản vẽ dự án cho các nhà máy công nghiệp,[4] nhưng cũng thiết kế cái vạc đốt lửa cho sân vận động Luzhniki dùng trong Thế vận hội Mùa hè 1980.[7]

Trong thập niên 1960 và 1970, phần bên ngoài của nhà thờ bị hư hại nhiều.[4] Trong số những người quan tâm đến sự hư hỏng của nhà thờ, có ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác Vladimir Vysotsky, người sống ở bên kia đường phố đối diện nhà thờ.[8] Vào cuối thập niên 1970 thành phố định tái thiết ngôi nhà thờ để có thể dùng làm phòng hòa nhạc cho đàn organ hoặc trung tâm văn hóa nói chung. Tuy nhiên các dự án này không hề được thực hiện, do sự phản kháng của Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt.[4]

Được sử dụng lại cho mục đích tôn giáo

Các giáo hữu cầu nguyện trong nhà thờ được phỏng theo tạm thời, khoảng 1993

Chính sách glasnost được áp dụng trong thời nắm quyền của Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, đã đóng vai trò quyết định trong việc phát triển tự do tôn giáo trong Liên bang Xô Viết.[9] Do vậy, năm 1989, một nhóm người Công giáo Moskva và hiệp hội văn hóa "Nhà Ba Lan" (tiếng Nga: Дом Польский), đề nghị đưa tòa nhà này vào sử dụng lại cho mục tiêu tôn giáo. Sau khi được thành phố đồng ý, nhà thờ này đã được dùng trở lại làm nơi thờ phụng tạm thời. Thánh lễ đầu tiên được cử hành tại cầu thang nhà thờ kể từ 60 năm qua trong lễ kính Đức Maria vô nhiễm nguyên tội ngày 8 tháng 12 năm 1990. Thánh lễ do linh mục người Ba Lan Tadeusz Pikus cử hành, người sau này trở thành Giám mục phụ tá của tổng giáo phận Warszawa.[4][5]

Tháng 1 năm 1990, một nhóm người Công giáo ở Moskva đã chính thức thành lập giáo xứ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Ngày 13 tháng 4 năm 1991 giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành thư luân lưu Providi quae, thiết lập "Giám quản Tông Tòa cho nước Nga thuộc châu Âu". Tổng Giám mục giám quản tông tòa, Tadeusz Kondrusiewicz, ban hành giáo lệnh tái thiết nhà thờ ngày 21 tháng 4 năm 1991. Được sự cho phép của thành phố, một thánh lễ thứ hai lại được cử hành ở cầu thang nhà thờ nhân ngày quốc khánh Ba Lan vào ngày 3 tháng 5 năm 1991. Việc thiết lập giáo xứ được ban tư pháp của Hội đồng thành phố Moskva chính thức công nhận ngày 31 tháng 5 năm 1991. Trong thời gian đó nhiều phần của nhà thờ đã bị Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt cho nhiều công ty thuê lại.[4]

Từ ngày 7 tháng 6 năm 1991, các thánh lễ được cử hành mỗi ngày chủ nhật ở sân nhà thờ, vì Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt vẫn chiếm đóng nhà thờ. Ngày 15 tháng 7 năm 1991, linh mục Josef Sanewski, thuộc Dòng Salêdiêng Don Bosco, được bổ nhiệm làm cha xứ. Việc dạy giáo lý được thực hiện thường xuyên dưới sự hướng dẫn của các nữ tu dòng Don Bosco từ ngày 29 tháng 11 năm 1991. Cùng thời gian đó, các hội từ thiện đầu tiên được thành lập để chăm sóc và giúp đỡ các người nghèo. Ngày 1 tháng 2 năm 1992 phó thị trưởng thành phố Moskva, Yury Luzhkov, đã ký một nghị định ra lệnh cho Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt trả lại tòa nhà từ năm 1994. Ngày 2 tháng 7 năm 1992 các thành viên của giáo xứ đã vào chiếm xưởng làm việc của Viện nghiên cứu trong nhà thờ. Hội đồng thành phố Moskva đã chấp nhận việc chiếm đóng này, nên sau đó đã xây một bức tường ngăn với phần còn lại của tòa nhà. Tại khu vực xưởng cũ này, thánh lễ đã được cử hành thường xuyên.[4][5]

Nhà thờ trước khi tái thiết (giữa thập niên 1990). Biểu ngữ ghi: Hãy trả nhà thờ cho chúng tôi!" (Верните нам храм!)

Ngày 7 tháng 3 năm 1995 bức tường ngăn cách nói trên đã bị các thành viên giáo xứ gỡ bỏ và bắt đầu lau chùi giàn kèo đỡ mái nhà. Viện nghiên cứu gọi đơn vị cảnh sát đặc nhiệm OMON tới ngăn cản. Ngày hôm sau đã xảy ra xung đột giữa giáo dân với cảnh sát, nhiều giáo dân trong đó có một nữ tu sĩ đã bị thương. Những người khác bị bắt, kể cả cha xứ và một chủng sinh, nhưng hôm sau họ đã được thả. Sau vụ việc này, vị giám quản Tông Tòa Tadeusz Kondrusiewicz đã viết một thư ngỏ cho tổng thống Nga Boris Yeltsin vào ngày 9 tháng 3 năm 1995, yêu cầu ông can thiệp, trong đó có đoạn: "Dường như sự bách hại giáo hội đã trở thành lịch sử rồi mà. Phải vậy không? Tôi không thể nhớ là (khi nào) đã nhìn thấy một linh mục bị bắt, và cũng không thể nhớ là (khi nào) đã nhìn thấy một nữ tu sĩ bị đánh đập".[4]

Kết quả là viên thị trưởng thành phố Moskva Yuri Luzhkov, một người được Yeltsin bổ nhiệm, đã ký quyết định ngày 7 tháng 3 năm 1995 ra lệnh di dời viện nghiên cứu ra khỏi nhà thờ từ năm 1996. Cùng lúc đó, Viện nghiên cứu đã viết thư cho Luzhkov mô tả vụ việc xảy ra trước đó theo quan điểm của họ, và yêu cầu bồi thường việc họ mất tòa nhà. Trong một cuộc họp với Đại sứ Ba Lan, Stanisław Ciosek, ngày 15 tháng 3 năm 1995, quyền thị trưởng thành phố Moskva - Alexander Musykantski - đảm bảo với ông rằng việc trả lại nhà thờ sẽ được hoàn tất vào cuối năm.[5]

Ngày 19 tháng 3 năm 1995, một thánh lễ do sứ thần Tòa Thánh John Bukowski chủ tế được cử hành trong phần nhà thờ đã đòi lại, trong đó vị sứ thần đã chuyển phép lành của giáo hoàng cho cộng đoàn giáo xứ. Trong một quyết định mới ngày 2 tháng 11 năm 1995, Luzhkov ra lệnh cho Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt di dời khỏi nhà thờ chậm nhất là vào cuối năm. Ngày 2 tháng 1 năm 1996 khi lệnh di dời không được thi hành, các giáo dân đã vào khu cực viện nghiên cứu và đem đồ đạc của viện ra ngoài. Giám đốc viện, Evgeny Afanasyev lại gọi cảnh sát tới, nhưng lần này họ từ chối can thiệp. Sau đó, viên giám đốc viện đã yêu cầu cha xứ gia hạn di dời 2 tuần lễ, và Viện Mosspetspromproyekt đã dời khỏi tòa nhà ngày 13 tháng 1 năm 1996. Ngày 2 tháng 2 năm 1996, tổng giáo phận Mẹ Thiên Chúa Moskva đã nhận được phép chính thức sử dụng vĩnh viễn nhà thờ này.[5]

Trùng tu và tái thánh hiến

Cảnh nhà thờ chính tòa đã tu bổ vào ban đêm. Dàn đèn chiếu sáng bên ngoài được bố trí vào cuối năm 2005.[10]

Đầu thập niên 1990, "Cơ quan bảo vệ Công trình xây dựng lớn" đã lập kế hoạch tu bổ nhà thờ dự trù vào năm 1997 nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập thành phố Moskva lần thứ 850. Đề án này đã không được thực hiện do tranh chấp về việc chiếm giữ. Tuy nhiên, năm 1995 thành phố đã quyết định cho tu bổ và giáo xứ phải chịu các chi phí tu bổ. Một ban tái thiết đã được thành lập gồm linh mục chính xứ Josef Sanevski làm chủ tịch, các thành viên là sử gia người Nga Stanislav Durnin, nhà thầu xây dựng Ba Lan và chính trị gia Grzegorz Tuderek.[4]

Từ năm 1996 tới năm 1999, việc tu bổ nhà thờ đã được thực hiện với sự giúp đỡ của các nhà tài trợ là công ty EnergoPol của Ba Lan, và Hiệp hội các nhà thờ Công giáo Đức Renovabis.[5] Chính phủ Nga đã cấp vốn khi chấm dứt dự án.[4] Việc trùng tu đã diễn ra ban đầu dưới sự chỉ đạo của các công ty Ba Lan PKZ và Budimex, họ đã phục hồi hoàn toàn mặt tiền nhà thờ và mái nhà. Từ tháng 9 năm 1998, linh mục Andrzey Stetskevich và kiến trúc sư Jan Tajchman của công ty Toruń của Ba Lan đã cùng trông coi việc tái thiết; trước đây họ đã cùng trông coi việc tái thiết Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời của Công giáo ở Sankt Peterburg. (linh mục Stetskevich sau này thăng lên làm tổng đại diện tổng giáo phận Công giáo Moskva). Các đồ đạc cố định và bàn thờ mới do các chuyên gia Ucraina, Belarus và Nga thực hiện. Các công ty ở Moskva thực hiện việc lắp ghép đá cẩm thạch ở bên trong và bên ngoài nhà thờ. Các đồ nội thất được các sinh viên của trường phục chế ở Sankt Peterburg sản xuất, dưới sự chỉ đạo của Vladimir Mukhin. Các kính màu dùng cho cửa sổ hình hoa hồng ngoài mặt tiền được làm ở Toruń, còn các cửa sổ khác được công ty Tolotschko của Belarus từ Hrodna sản xuất.[4][5][11] Nhà thờ làm lễ tái khai trương ngày 12 tháng 12 năm 1999 và được hồng y quốc vụ khanh của giáo triều Rôma Angelo Sodano tái thánh hiến.[5] Liên kết với nhà thờ chính tòa có một thư viện, một tòa soạn tạp chí Công giáo tiếng Nga "Sứ giả Công giáo – Ánh sáng Phúc âm" (tiếng Nga: Католический вестник — Свет Евангелия) cũng như văn phòng Caritas địa phương.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_thờ_chính_tòa_Đức_Mẹ_Vô_Nhiễm,_Moskva http://books.google.com/?id=ezpfphwTNPYC&lpg=PA74&... http://www.kulichki.com/vv/ovys/marshrut/ http://www.newsru.com/arch/religy/09nov2005/moscow... http://smotri.com/video/view/?id=u4771619a93 http://www.dradio.de/dkultur/sendungen/kalenderbla... http://www.orgelbau-schmid.de/?link_id=portrait http://www.piusbruderschaft.de/archiv-news/717-akt... http://www.art.umk.pl/zktajchman.php http://www.artbene.ru/aboutorganeng http://cargobay.ru/news/moskovskijj_komsomolec/200...